Scholar Hub/Chủ đề/#cốt liệu/
Cốt liệu là thành phần quan trọng trong bê tông và vữa, bao gồm cốt liệu lớn (sỏi, đá) và cốt liệu nhỏ (cát). Chúng góp phần tăng độ bền, định hình cơ lý tính, ảnh hưởng đến chi phí và hiệu quả thi công. Cốt liệu cần đáp ứng tiêu chuẩn sạch và bền, được khai thác, chế biến qua công nghệ tiên tiến. Tái chế cốt liệu từ công trình cũ là xu hướng bền vững, tiết kiệm chi phí và giảm thiểu tác động môi trường. Lựa chọn cốt liệu đúng cách đảm bảo chất lượng và tuổi thọ công trình.
Khái Niệm Cốt Liệu
Cốt liệu là một trong những thành phần chính của bê tông và vữa, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cấu trúc và tính chất của các sản phẩm xây dựng. Cốt liệu có thể được chia thành hai loại chính: cốt liệu lớn (thường là sỏi đá) và cốt liệu nhỏ (chủ yếu là cát). Các loại cốt liệu này thường được khai thác từ thiên nhiên hoặc tái chế từ vật liệu xây dựng cũ.
Phân Loại Cốt Liệu
Cốt Liệu Lớn
Cốt liệu lớn thường là sỏi và đá dăm, được sử dụng để gia tăng độ bền và khả năng chịu lực của bê tông. Kích thước của cốt liệu lớn thường dao động từ 5 mm đến 40 mm, phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể của dự án xây dựng.
Cốt Liệu Nhỏ
Cốt liệu nhỏ chủ yếu là cát, có kích thước từ 0.075 mm đến 5 mm. Cát có vai trò lấp đầy các khoảng trống giữa các cốt liệu lớn, tạo ra một khối bê tông chắc chắn và đồng nhất.
Vai Trò Của Cốt Liệu Trong Xây Dựng
Cốt liệu không chỉ góp phần định hình cơ lý tính của bê tông mà còn ảnh hưởng đến giá thành và hiệu quả thi công. Việc lựa chọn đúng loại cốt liệu với kích thước và chất lượng phù hợp sẽ đảm bảo tính ổn định và bền vững cho công trình xây dựng.
Yêu Cầu Kỹ Thuật Đối Với Cốt Liệu
Cốt liệu dùng trong xây dựng phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt, bao gồm độ sạch, độ chắc chắn, và khả năng chống thấm nước. Các cốt liệu bẩn hoặc chứa tạp chất hữu cơ có thể làm giảm chất lượng của bê tông, dẫn đến hiện tượng nứt, giảm tuổi thọ công trình.
Công Nghệ Khai Thác và Chế Biến Cốt Liệu
Cốt liệu thường được khai thác từ các mỏ đá hoặc lòng sông và sau đó được đưa qua quá trình chế biến bao gồm nghiền, sàng lọc, và rửa sạch để đạt được kích thước và độ sạch mong muốn. Công nghệ khai thác tiên tiến giúp tối ưu hóa quy trình này, giảm thiểu ảnh hưởng đến môi trường và đảm bảo hiệu quả kinh tế.
Tái Chế Cốt Liệu
Trong bối cảnh tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, tái chế cốt liệu đã trở thành một xu hướng quan trọng trong ngành xây dựng. Tái chế cốt liệu từ các công trình xây dựng cũ không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn giảm lượng rác thải ra môi trường, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể.
Kết Luận
Cốt liệu đóng vai trò nền tảng trong ngành xây dựng, quyết định đến chất lượng và độ bền của bê tông cũng như sự ổn định của công trình. Việc lựa chọn và sử dụng cốt liệu một cách hiệu quả, kết hợp với xu hướng tái chế bền vững, sẽ đảm bảo sự phát triển ổn định của ngành xây dựng trong tương lai.
Truy hồi cột dọc lưu huỳnh điôxit từ thiết bị giám sát ozone: Quan sát toàn cầu và so sánh với dữ liệu mặt đất và vệ tinh Dịch bởi AI Journal of Geophysical Research D: Atmospheres - Tập 120 Số 6 - Trang 2470-2491 - 2015
Tóm tắtChúng tôi trình bày một bộ dữ liệu mới về các cột dọc lưu huỳnh điôxit (SO2) từ các quan sát của thiết bị Ozone Monitoring Instrument (OMI)/AURA trong giai đoạn từ 2004 đến 2013. Thuật toán truy hồi được sử dụng là một sơ đồ Quang phổ hấp thụ quang học khác biệt (DOAS) tiên tiến kết hợp với tính toán truyền bức xạ. Nó được phát triển để chuẩn bị cho việc xử lý vận hành sản phẩm dữ liệu SO2 cho nhiệm vụ Thiết bị Giám sát đối lưu TROPOspheric/Sentinel 5 Precursor sắp tới. Chúng tôi đánh giá kết quả cột SO2 với các kết quả suy diễn từ các truy hồi vệ tinh khác như Bộ tạo tín hiệu hồng ngoại và OMI (Thuật toán Phân tích Phương trình Tuyến tính và Phân tích Thành phần Chính). Một sự đồng thuận tốt tổng thể giữa các bộ dữ liệu khác nhau được tìm thấy cho cả các kịch bản phát thải SO2 núi lửa và nhân tạo. Chúng tôi cho thấy rằng thuật toán của chúng tôi tạo ra các cột SO2 với độ ồn thấp và có khả năng cung cấp ước lượng chính xác về SO2. Kết luận này được hỗ trợ bởi những kết quả xác thực quan trọng trên địa điểm ô nhiễm nặng nề ở Xianghe (Trung Quốc). Gần 4 năm dữ liệu OMI và cột SO2 multiaxis DOAS mặt đất đã được so sánh và một sự khớp tuyệt vời đã được tìm thấy. Chúng tôi cũng nhấn mạnh hiệu suất cải thiện của thuật toán trong việc nắm bắt các nguồn SO2 yếu bằng cách phát hiện các phát thải SO2 từ tàu biển trong dữ liệu trung bình lâu dài, một phép đo chưa được báo cáo từ không gian.
Liệu pháp Itraconazole đường uống cho Keratitis mycotic Dịch bởi AI Mycoses - Tập 31 Số 5 - Trang 271-279 - 1988
Tóm tắt: Bốn mươi bệnh nhân liên tiếp mắc keratitis nấm (19 bệnh nhân do Fusarium solani và các loài Fusarium khác, 15 bệnh nhân do Aspergillus flavus và A. fumigatus và sáu trường hợp do các nấm khác) đã được điều trị bằng itraconazole, một dẫn xuất triazole. Chất này được dùng đường uống một lần mỗi ngày với liều 200 mg trong thời gian điều trị trung bình là 17 ngày. Sự loét tiến triển của giác mạc đã dừng lại và có sự giải quyết hoàn toàn của tất cả các tổn thương và tiêu diệt nấm gây bệnh khỏi tổn thương ở 22 bệnh nhân. Ở năm bệnh nhân, các nấm gây bệnh đã được tiêu diệt khỏi tổn thương nhưng cuối cùng phải thực hiện phẫu thuật do sự giải quyết chưa hoàn toàn của các tổn thương. Trong 13 bệnh nhân còn lại, sự loét giác mạc tiến triển vẫn tiếp tục và các nấm gây bệnh (F. solani và các loài Fusarium khác ở chín bệnh nhân, A. fumigatus ở hai bệnh nhân, A. flavus ở một bệnh nhân và Cladosporium spp. ở một bệnh nhân) đã không được tiêu diệt khỏi tổn thương. Đáp ứng hoàn hảo hoặc trung bình đối với liệu pháp được quan sát thấy thường xuyên hơn trong các trường hợp keratitis do Aspergillus hơn là do Fusarium. Không có bằng chứng nào về các phản ứng phụ nghiêm trọng ở bất kỳ bệnh nhân nào.
Tính hiệu quả và an toàn của liệu pháp dược lý cho bệnh Alzheimer và các triệu chứng hành vi và tâm lý của sa sút trí tuệ ở bệnh nhân cao tuổi có suy giảm chức năng vừa và nặng: một tổng quan hệ thống về các thử nghiệm kiểm soát Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắt
Đối tượng nghiên cứu
Nhiều bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer (AD) đang gặp phải tình trạng yếu đuối về thể chất hoặc có những suy giảm chức năng đáng kể. Có nhiều bằng chứng cho thấy những bệnh nhân này có nguy cơ cao hơn về các sự kiện bất lợi do thuốc gây ra. Hơn nữa, tình trạng yếu đuối dường như dự đoán các kết quả lâm sàng kém hơn so với tuổi tác một cách đơn giản. Theo kiến thức của chúng tôi, chưa có bất kỳ nghiên cứu tổng quan hệ thống nào về các thử nghiệm lâm sàng liên quan đến liệu pháp thuốc cho AD hoặc các triệu chứng hành vi và tâm lý của sa sút trí tuệ (BPSD) tập trung đặc biệt vào chủ đề yếu đuối về thể chất. Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá hiệu quả và an toàn của liệu pháp dược lý ở các bệnh nhân AD có tình trạng yếu đuối hoặc suy giảm chức năng đáng kể.
Phương pháp
Chúng tôi đã thực hiện một tìm kiếm tài liệu hệ thống trong MEDLINE, Embase và Cochrane Central Register of Controlled Trials (CENTRAL) cho các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát (RCTs) của liệu pháp thuốc cho AD và BPSD ở bệnh nhân có suy giảm chức năng đáng kể theo các mục tiêu báo cáo được ưu tiên cho các đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp (PRISMA) và tiêu chí nghiên cứu của Cochrane. Các quần thể bệnh nhân bị suy giảm chức năng đáng kể đã được xác định bằng cách sử dụng các khuyến nghị của Nhóm nghiên cứu Medication and Quality of Life in frail older persons (MedQoL). Việc sàng lọc, lựa chọn các nghiên cứu, trích xuất dữ liệu và đánh giá nguy cơ thiên lệch đã được thực hiện độc lập bởi hai người đánh giá. Các kết quả bao gồm tình trạng chức năng, chức năng nhận thức, thay đổi triệu chứng BPSD, ấn tượng toàn cầu về lâm sàng và chất lượng cuộc sống đã được phân tích. Để đánh giá tác hại, chúng tôi đã đánh giá các sự kiện bất lợi, tỷ lệ bỏ cuộc như một chỉ số của khả năng dung nạp điều trị và tử vong. Các kết quả đã được phân tích theo tiêu chuẩn Cochrane và phương pháp Đánh giá, Phát triển và Đánh giá Khuyến nghị (GRADE).
Kết quả
Trong số 45,045 kết quả tìm kiếm, 38,447 tóm tắt và 187 văn bản đầy đủ đã được sàng lọc, và cuối cùng có 10 RCTs được bao gồm trong tổng quan hệ thống. Các bài báo được chọn đã đánh giá liệu pháp dược lý với các chất ức chế acetylcholinesterase (AChEI), thuốc chống co giật, thuốc chống trầm cảm và thuốc chống loạn thần. Các nghiên cứu về AChEI cho thấy rằng bệnh nhân có suy giảm chức năng đáng kể có những cải thiện nhẹ nhưng có ý nghĩa trong nhận thức và rằng AChEI thường được dung nạp tốt. Các nghiên cứu về thuốc chống trầm cảm không cho thấy những cải thiện đáng kể về triệu chứng trầm cảm. Các thuốc chống loạn thần và thuốc chống co giật đã cho thấy hiệu ứng nhỏ đối với một số yếu tố BPSD nhưng cũng có tỷ lệ sự kiện bất lợi cao hơn. Tuy nhiên, do số lượng thử nghiệm rất nhỏ đã được xác định, chất lượng bằng chứng cho tất cả các kết quả là thấp đến rất thấp.
Nhìn chung, số lượng các nghiên cứu đủ tiêu chuẩn ít ỏi cho thấy rằng các bệnh nhân cao tuổi có suy giảm chức năng đáng kể không được xem xét đầy đủ trong hầu hết các thử nghiệm lâm sàng điều tra liệu pháp thuốc cho AD và BPSD.
Kết luận
Do thiếu bằng chứng, không thể đưa ra các khuyến nghị cụ thể cho liệu pháp dược lý cho AD và BPSD ở các bệnh nhân cao tuổi yếu đuối hoặc cao tuổi có suy giảm chức năng đáng kể. Do đó, các thử nghiệm lâm sàng tập trung vào những người cao tuổi yếu đuối là cần thiết một cách khẩn cấp. Một cách tiếp cận tiêu chuẩn hóa về tình trạng yếu đuối về thể chất trong các nghiên cứu lâm sàng trong tương lai là rất mong muốn.
Nghiên cứu thực nghiệm nâng cao một số tính chất của bê tông nhẹ cốt liệu rỗngTạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (TCKHCNXD) - ĐHXDHN - Tập 12 Số 2 - Trang 104-109 - 2018
Bê tông nhẹ cốt liệu rỗng polystyrene (EPS-C) là loại vật liệu nhẹ, có cường độ nén thấp và khả năng hấp thụ năng lượng cao. Tuy nhiên, do trọng lượng các hạt polystyrene nhẹ với bề mặt kỵ nước nên khi trộn trong bê tông các hạt polystyrene có xu hướng bị phân tầng, điều này ảnh hưởng đến tính công tác và làm giảm cường độ của bê tông. Trong nghiên cứu này sẽ đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng hạt polystyrene, kích thước hạt polystyrene, thời gian rung khi tạo hình và sợi polypropylene đến cường độ của EPS-C. Các kết quả nghiên cứu cho thấy khi thời gian rung tăng cường độ nén của bê tông giảm. Với EPS-C có khối lượng thể tích từ 650-900 kg/m3, cường độ nén đạt từ 3-7.5 MPa có thể đạt được bằng cách thay thế một hàm lượng hạt polystyrene nhất định. Ngoài ra việc bổ sung sợi polypropylene cũng cải thiện cường độ nén cho EPS-C.
Nhận ngày 17/01/2018; sửa xong 12/01/2018; chấp nhận đăng 28/02/2018
Nghiên cứu sử dụng hạt vi cầu rỗng từ tro bay thay thế một phần cốt liệu nhỏ cho chế tạo bê tông nhẹ chịu lựcBài báo này trình bày kết quả nghiên cứu sử dụng các hạt vi cầu rỗng từ tro bay, còn gọi là hạt cenosphere(FAC) thay thế một phần hoặc hoàn toàn cốt cốt liệu nhỏ trong bê tông để chế tạo loại bê tông nhẹ chịu lực với khối lượng thể tích (KLTT) trong khoảng từ 1300 đến 1800 kg/m3, cường độ nén trên 40 MPa. Cát được sử dụng thay thế một phần cenospheres ở các tỷ lệ cát/FAC là 0, 20, 40, 60, 80 và 100 % theothểtích. Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi thay thế cát bởi FAC, khối lượng thể tích của bê tông giảm tương ứng, từ 2180 kg/m3 của mẫu 100 % cát xuống còn 1312 kg/m3 khi thay thế hoàn toàn cốt liệu cát bằng FAC. Tuy nhiên, các tính chất cơ học cơ bản của bê tông sử dụng FAC như cường độ nén, cường độ uốn, mô đun đàn hồi bị giảm, độ hút nước tăng, mặc dù cường độ riêng (tỷ lệ cường độ nén so với KLTT) tăng đáng kể.
#Hạt vi cầu rỗng từ tro bay #Bê tông nhẹ #Bê tông nhẹ chịu lực #Cenospheres #Bê tông nhẹ cường độ cao #Cốt liệu nhẹ
Ảnh hưởng của cốt liệu được chế tạo từ tro bay thay thế cát tự nhiên tới một số tính chất của vữa xi măngBài báo này trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của cốt liệu mịn được chế tạo từ tro bay thay thế cát tự nhiên tới tính chất của vữa xi măng. Vữa sử dụng cốt liệu từ tro bay có kích thước từ 4,5 mm đến 0,14 mm cho tính chất tốt hơn vữa sử dụng cốt liệu từ tro bay kích thước nhỏ hơn 2,5 mm và lượng hạt dưới kích thước 0,14 mm lớn hơn 25 %. Hàm lượng cốt liệu từ tro bay thay thế cát tăng thì khối lượng riêng của vữa giảm tương ứng, nhu cầu nước cho vữa tăng nguyên nhân do các hạt cốt liệu từ tro bay có độ rỗng xốp và hút nước lớn. Cường độ nén của vữa ở tuổi 28 ngày tương đương mẫu đối chứng khi sử dụng 40 % hạt cốt liệu từ tro bay thay cát tự nhiên. Kết quả nghiên cứu này là bước đầu chứng minh khả năng ứng dụng sử dụng hạt cốt liệu từ tro bay thay thế cát tự nhiên để chế tạo vữa và bê tông.
#Cốt liệu tro bay #Vữa xi măng #Cát tự nhiên
Nghiên cứu so sánh các phương pháp thiết kế tăng cường khả năng chịu uốn của dầm bê tông cốt thép bằng vật liệu FRP dán gần bề mặt theo ACI 440.2R-08 và ISIS (Canada)Tăng cường khả năng chịu uốn của dầm BTCT bằng phương pháp dán gần bề mặt (NSM) vật liệu FRP giải quyết được các vấn đề tồn tại của phương pháp dán ngoài (EB) do vật liệu FRP được bảo vệ tốt hơn đối với các tác động từ môi trường bên ngoài. Bài báo trình bày kết quả phân tích so sánh giữa hai hướng dẫn thiết kế tăng cường sức kháng uốn của dầm bê tông cốt thép sử dụng vật liệu FRP dán gần bề mặt ACI (Mỹ) [3] và ISIS (Canada) [13]. Kết quả phân tích cho thấy, hướng dẫn của ACI [3] cho sức kháng uốn sau khi tăng cường cao hơn khi tính theo ISIS [13] khoảng 31,1% đến 42,6%. Ngoài ra, khi so sánh hiệu quả kinh tế của hai phương pháp tăng cường dán ngoài và dán gần bề mặt, theo ACI [3], phương pháp dán gần bề mặt có chi phí thấp hơn khoảng 13,7% đến 58,2% so với phương pháp dán ngoài với sức kháng uốn tương đương.
#Dán gần bề mặt #pôlime cốt sợi #sức kháng uốn #tăng cường ngoài #tăng cường uốn
Nghiên cứu khả năng chịu lực và hệ số dẫn nhiệt của bê tông sử dụng cốt liệu thuỷ tinh y tếNgày nay vấn đề ô nhiễm môi trường càng trở thành chủ đề nóng được đặc biệt quan tâm, hậu quả gây ra sự nóng lên của trái đất, làm khí hậu toàn cầu thay đổi rõ rệt.
Nghiên cứu sử dụng thủy tinh y tế để sử dụng thay thếvào thành phần cốt liệu của bê tông với mục đích tận dụng nguồn rác thải thủy tinh y tế ngày càng tăng trong các cơ sở y tế để giúp giải quyết phần nào vấn đề rác thải y tế. Đây là một trong những nguồn rác thải gây ô nhiễm rất lớn cho môi trường khi đốt hay chôn lấp. Vấn đề đặt ra là nghiên cứu xác định các chỉ tiêu của bê tông sử dụng thủy tinh như: cường độ chịu nén, hệ số dẫn nhiệt. Từ đó đưa ra những đánh giá cụ thể về bê tông và đề xuất sự lựa chọn sử dụngphù hợpthủy tinh y tế làm cốt liệu trong thành phần bê tông.
#Bê tông thủy tinh #rác thải thủy tinh #ô nhiễm #cường độ chịu nén #hệ số dẫn nhiệt
Nghiên cứu chế tạo bê tông nhẹ tự lèn từ tro bayNghiên cứu chế tạo cốt liệu nhẹ nhân tạo (LWA) từ nguồn vật liệu địa phương và tro bay từ nhà máy nhiệt điện tại khu vực Đồng bằng sông Cửu long (ĐBSCL) bằng phương pháp liên kết nguội. Qua các thử nghiệm cho thấy có thể sản xuất LWA từ tro bay có khối lượng thể tích thấp (1,002 g/cm3), độ hút nước của cốt liệu đạt 15,67 % cao hơn so với đá tự nhiên (5,21 %) và cường độ nén từng viên của LWA được sản xuất đạt 1,08 MPa với hàm lượng 8 % xi măng và LWA được ứng dụng vào thay thế 100% thể tích của đá dăm trong hỗn hợp bê tông tự lèn với các tỷ lệ w/c khác nhau. Kết quả cho thấy bê tông nhẹ tự lèn được sản xuất trong nghiên cứu có độ sụt cao nằm trong khoảng từ 250 mm đến 270 mm và đường kính chảy loang từ 550 mm đến 650 mm đạt yêu cầu về bê tông tự lèn theo tiêu chuẩn TCVN 12209:2018, khối lượng thể tích khô của bê tông sử dụng LWA nhỏ hơn 12 % đến 16 % so với các trường hợp cấp phối bê tông sử dụng đá tự nhiên. Độ hút nước thấp và cường độ đạt khoảng 90 % đến 97 % so với các cấp phối bê tông sử dụng đá tự nhiên và tất cả các cấp phối bê tông nhẹ tự lèn được sản xuất đạt tiêu chuẩn ASTM C330 và ACI 318. Qua các kết quả phân tích đánh giá tính chất của LWA và bê tông nhẹ tự lèn được sản xuất trong nghiên cứu có thể chứng minh được tiềm năng ứng dụng tro bay vào sản xuất LWA và ứng dụng vào chế tạo bê tông nhẹ tự lèn kết hợp với phụ gia khoáng (Fly ash, silica fume) thay thế xi măngtrong nghiên cứu giúp cải thiện đáng kể được tính chất của bê tông.
#Tro bay #Phương pháp liên kết nguội #Bê tông nhẹ #Bê tông tự lèn #Cốt liệu nhẹ
MỘT SỐ LƯU Ý TRONG VIỆC SỬ DỤNG ĐÁ MI BỤI LÀM CỐT LIỆU NHỎ CHO THIẾT KẾ CẤP PHỐI BÊ TÔNGĐá mi bụi là sản phẩm phụ đi kèm trong quá trình sàng tách ra từ sản phẩm đá nghiền tại các mỏ đá. Loại đá này có thể được sử dụng làm cốt liệu nhỏ thay thế cho cát sông trong các thiết kế cấp phối bê tông. Nhóm tác giả đã nghiên cứu và đưa ra một số khuyến nghị trong việc sử dụng loại cốt liệu này cho bê tông. Trước tiên, khi sử dụng đá mi bụi cần phải nghiên cứu kỹ tính chất cơ lý cũng như thành phần hạt của nó. Tiếp theo, khi thiết kế cấp phối bê tông không nên điều chỉnh tăng quá 10% hàm lượng xi măng so với các cấp phổi thông thường sử dụng cát làm cốt liệu nhỏ. Và cuối cùng, nên cân nhắc sử dụng phụ gia hóa học để tăng tính dẻo của bê tông tươi qua đó cũng làm tăng đáng kể cường độ bê tông tuổi trẻ (3 và 7 ngày tuổi).
#Dusty crushed stone #fine aggregate #mix proportion #concrete workability